ÂN TỨ
Thân tặng chị Tuyết
Sau một năm đến sinh hoạt với hội thánh, tôi khám phá ra một điều lý thú. Ngoài những ân tứ mà tôi thường nghe các vị mục sư giảng và các tín hữu chia xẻ, tôi biết Chúa còn cho con người chúng ta một ân tứ đặc biệt. Ân tứ “đòi nợ”! Quý vị có nghe lạ tai không? Thật ra tôi không biết chính xác từ nào để diễn tả được ân tứ này.
Từ nhỏ tôi vẫn ước mơ những điều mà chị tôi vẫn bảo là “cao hơn trời”. Tôi mơ mình đi du lịch đến những kỳ quan của nhân loại. Tôi muốn sống ở một thành phố nổi tiếng trên thế giới. Nhưng có một ước mơ mà chính tôi cũng không bao giờ nghĩ mình có thể đạt được chứ đừng nói chi đến chị tôi. Dẫu vậy tôi vẫn cứ mơ. Tôi mơ có một ngày nào đó những bài viết của tôi sẽ được đăng báo. Chị tôi cười vang khi nghe tôi ước. Không phải chị tôi độc đoán khi nhạo cười những ước mơ của tôi. Bởi vì môn văn của tôi lúc nào cũng chỉ vào cỡ bốn phẩy chín hoặc năm phẩy tính theo thang điểm ở Việt nam. Còn các thầy cô dạy văn thì lúc nào cũng ghi vào học bạ của tôi những câu đại loại như, “Trung bình yếu. Cần cố gắng hơn.” Trong đám bạn của tôi, đứa nào cũng sáng tác được một vài bài thơ. Còn tôi thì nửa chữ thơ kiếm cũng không ra. Chỉ có một điều mà chị tôi cũng như các bạn tôi đều đồng ý là tôi có khiếu kể chuyện và bình văn. Nhưng mà chỉ nói thôi, chứ cầm viết lên tôi không biết viết như thế nào. Vậy đó, chỉ có một chút xíu công nhận của chị tôi và bạn bè mà tôi vẫn nuôi mãi ước mơ thuở nhỏ.
Sự nghiêp “dzăn chương” của tôi (nói theo ngôn ngữ của chị tôi) bắt đầu khi tôi gặp phu nhân của ông trưởng ban truyền thông của hội thánh vào mùa Noel đầu tiên tôi đến nhóm với hội thánh. Chả hiểu dòm mặt mũi tôi thế nào mà chị bảo tôi, “Em phải viết một bài báo đó nha!” Tôi không dám gục mà cũng không dám lắc đầu. Gục đầu với chị thì tôi không thể, bởi tôi đã từng bao giờ viết cái gì đâu. Còn lắc đầu thì tôi sợ mất một cơ hội thực hiện một ước mơ bao nhiêu năm của tôi. Mỗi Chúa nhật gặp tôi ở nhà thờ, chị đều nhắc, “Bài đâu? Không viết là chị đòi hoài đó nha.” Chẳng biết có phải vì chị đòi nợ tôi mỗi tuần hay chăng nhưng cuối cùng tôi cũng viết được một bài để đưa cho chị. Tôi nóng lòng trông chờ đến ngày Giáng sinh để xem cái tác phẩm đầu tay của mình. Tôi dám chắc cái háo hức của các em nhỏ cho ngày lễ này chắc không thể lớn hơn của tôi. Tôi trông đợi một món quà mà tôi đã mơ ước bao nhiêu năm.
Và rồi ngày 25 cũng đến. Cầm cuốn Đặc san Giáng sinh trên tay, tôi mở ra lướt vội mục lục. Tôi hồi hộp khi thấy bài viết của tôi đã được đăng trong tờ báo. Về đến nhà, tôi vội vàng mở cuốn báo ra, đọc bài viết của mình. Ái chà! Phần trình bày của trang báo mới hay làm sao. Tôi cảm thấy bài viết của tôi dường như thú vị hơn nhờ phần trình bày ấy. Tôi cầm tờ báo đi ra phòng khách. Ba tôi cũng đang đọc một cuốn báo. Cũng giống như bao người cha Việt nam, ba tôi rất tiết kiệm những lời khen tặng đối với con cái. Dẫu vậy, tôi cũng muốn nghe ý kiến của ông. Tôi hỏi ông, “Ba đọc bài của con viết chưa?” Ba tôi gật đầu nhưng mắt vẫn không rời tờ báo. Tôi hỏi tiếp, “Nghe hay không ba?” Ba tôi cười, “Nghe cũng được. Cũng gần giống nhà văn…” “…nhưng không biết văn gì…” Mấy đứa em tôi chêm vào. Cả nhà tôi rộn vang tiếng cười. Và kể từ hôm đó, tôi được vinh dự kiểm duyệt tất cả những gì liên quan đến tiếng Việt của cá thành viên trong gia đình.
Có lẽ tôi sẽ không bao giờ viết được một bài viết nào nếu không bị phu nhân của ông trưởng ban truyền thông bền lòng “đòi nợ”. Dường như mùa Giáng sinh nào tôi (cũng có thể là tất cả mọi người) đều bận rộn, nhưng tôi cũng phải dành thì giờ để viết một bài trả nợ cho chị. Chị đã giúp tôi có được một ước mơ thời thơ trẻ. Một ước mơ dường như chỉ để mơ mà thôi. Có lẽ tôi mắc nợ chị thật. Không chỉ mình tôi nhưng nhiều nhà văn thứ thiệt trong hội thánh cũng bị chị đòi nợ mỗi mùa Giáng sinh về. Nhờ sự đòi nợ bền bỉ của chị mà mỗi số báo Giáng sinh của hội thánh được phong phú với nhiều bài viết đủ thể loại. Bây giờ quý vị có đồng ý với tôi rằng cách đòi nợ của chị là một ân tứ hay không?
Dec 2001
Thân tặng chị Tuyết
Sau một năm đến sinh hoạt với hội thánh, tôi khám phá ra một điều lý thú. Ngoài những ân tứ mà tôi thường nghe các vị mục sư giảng và các tín hữu chia xẻ, tôi biết Chúa còn cho con người chúng ta một ân tứ đặc biệt. Ân tứ “đòi nợ”! Quý vị có nghe lạ tai không? Thật ra tôi không biết chính xác từ nào để diễn tả được ân tứ này.
Từ nhỏ tôi vẫn ước mơ những điều mà chị tôi vẫn bảo là “cao hơn trời”. Tôi mơ mình đi du lịch đến những kỳ quan của nhân loại. Tôi muốn sống ở một thành phố nổi tiếng trên thế giới. Nhưng có một ước mơ mà chính tôi cũng không bao giờ nghĩ mình có thể đạt được chứ đừng nói chi đến chị tôi. Dẫu vậy tôi vẫn cứ mơ. Tôi mơ có một ngày nào đó những bài viết của tôi sẽ được đăng báo. Chị tôi cười vang khi nghe tôi ước. Không phải chị tôi độc đoán khi nhạo cười những ước mơ của tôi. Bởi vì môn văn của tôi lúc nào cũng chỉ vào cỡ bốn phẩy chín hoặc năm phẩy tính theo thang điểm ở Việt nam. Còn các thầy cô dạy văn thì lúc nào cũng ghi vào học bạ của tôi những câu đại loại như, “Trung bình yếu. Cần cố gắng hơn.” Trong đám bạn của tôi, đứa nào cũng sáng tác được một vài bài thơ. Còn tôi thì nửa chữ thơ kiếm cũng không ra. Chỉ có một điều mà chị tôi cũng như các bạn tôi đều đồng ý là tôi có khiếu kể chuyện và bình văn. Nhưng mà chỉ nói thôi, chứ cầm viết lên tôi không biết viết như thế nào. Vậy đó, chỉ có một chút xíu công nhận của chị tôi và bạn bè mà tôi vẫn nuôi mãi ước mơ thuở nhỏ.
Sự nghiêp “dzăn chương” của tôi (nói theo ngôn ngữ của chị tôi) bắt đầu khi tôi gặp phu nhân của ông trưởng ban truyền thông của hội thánh vào mùa Noel đầu tiên tôi đến nhóm với hội thánh. Chả hiểu dòm mặt mũi tôi thế nào mà chị bảo tôi, “Em phải viết một bài báo đó nha!” Tôi không dám gục mà cũng không dám lắc đầu. Gục đầu với chị thì tôi không thể, bởi tôi đã từng bao giờ viết cái gì đâu. Còn lắc đầu thì tôi sợ mất một cơ hội thực hiện một ước mơ bao nhiêu năm của tôi. Mỗi Chúa nhật gặp tôi ở nhà thờ, chị đều nhắc, “Bài đâu? Không viết là chị đòi hoài đó nha.” Chẳng biết có phải vì chị đòi nợ tôi mỗi tuần hay chăng nhưng cuối cùng tôi cũng viết được một bài để đưa cho chị. Tôi nóng lòng trông chờ đến ngày Giáng sinh để xem cái tác phẩm đầu tay của mình. Tôi dám chắc cái háo hức của các em nhỏ cho ngày lễ này chắc không thể lớn hơn của tôi. Tôi trông đợi một món quà mà tôi đã mơ ước bao nhiêu năm.
Và rồi ngày 25 cũng đến. Cầm cuốn Đặc san Giáng sinh trên tay, tôi mở ra lướt vội mục lục. Tôi hồi hộp khi thấy bài viết của tôi đã được đăng trong tờ báo. Về đến nhà, tôi vội vàng mở cuốn báo ra, đọc bài viết của mình. Ái chà! Phần trình bày của trang báo mới hay làm sao. Tôi cảm thấy bài viết của tôi dường như thú vị hơn nhờ phần trình bày ấy. Tôi cầm tờ báo đi ra phòng khách. Ba tôi cũng đang đọc một cuốn báo. Cũng giống như bao người cha Việt nam, ba tôi rất tiết kiệm những lời khen tặng đối với con cái. Dẫu vậy, tôi cũng muốn nghe ý kiến của ông. Tôi hỏi ông, “Ba đọc bài của con viết chưa?” Ba tôi gật đầu nhưng mắt vẫn không rời tờ báo. Tôi hỏi tiếp, “Nghe hay không ba?” Ba tôi cười, “Nghe cũng được. Cũng gần giống nhà văn…” “…nhưng không biết văn gì…” Mấy đứa em tôi chêm vào. Cả nhà tôi rộn vang tiếng cười. Và kể từ hôm đó, tôi được vinh dự kiểm duyệt tất cả những gì liên quan đến tiếng Việt của cá thành viên trong gia đình.
Có lẽ tôi sẽ không bao giờ viết được một bài viết nào nếu không bị phu nhân của ông trưởng ban truyền thông bền lòng “đòi nợ”. Dường như mùa Giáng sinh nào tôi (cũng có thể là tất cả mọi người) đều bận rộn, nhưng tôi cũng phải dành thì giờ để viết một bài trả nợ cho chị. Chị đã giúp tôi có được một ước mơ thời thơ trẻ. Một ước mơ dường như chỉ để mơ mà thôi. Có lẽ tôi mắc nợ chị thật. Không chỉ mình tôi nhưng nhiều nhà văn thứ thiệt trong hội thánh cũng bị chị đòi nợ mỗi mùa Giáng sinh về. Nhờ sự đòi nợ bền bỉ của chị mà mỗi số báo Giáng sinh của hội thánh được phong phú với nhiều bài viết đủ thể loại. Bây giờ quý vị có đồng ý với tôi rằng cách đòi nợ của chị là một ân tứ hay không?
Dec 2001