Ba tôi và các con cháu
Kính tặng Ba nhân ngày Cha 2010
Ký ức thời thơ ấu của tôi với ba không nhiều. Tôi chỉ nhớ mỗi lần ba đi công vụ về là tôi thích ngồi dưới chân ba để gỡ những cánh cỏ may. Rồi sau đó là những chuỗi ngày vắng ba cơ cực và tủi hổ. Cùng với nhiều chú bác trong họ hàng, ba tôi bị “tiên lãnh”* bảy năm. Suốt thời gian này tôi chỉ gặp ba có một lần ngắn ngủi khi đi thăm ba với mẹ. Không biết vì thời gian thăm nuôi quá ngắn hay tôi quá bé nhưng tôi không hề nhớ một chút gì về ba trong lần đó. Chỉ nhớ là ba cho tôi một chùm bằng nhôm gồm một cái ngoáy tai, một cái nhíp, một cái lược nhỏ và một trái tim bé tí. Những món đồ nhỏ này nhắc rằng chị em tôi có một người cha lo cho chúng tôi lắm dù ông đang ở trong tù.
Những kỷ niệm với ba chỉ đậm nét trong tôi từ lúc ông trở về nhà sau khi ra tù.Tôi nhớ ngày ấy khi tôi đang thả cái gàu xuống múc nước dưới giếng, tôi nghe có ai đó kêu lên: “Ô, chú Năm về!” Tôi giựt cái gàu không khỏi giếng rồi quăng nó trên đất và chạy nhanh về nhà. Tôi không chạy đến ôm chầm lấy ba như tôi đã tưởng tượng. Tôi dừng nơi cửa, lạ lùng quan sát ba. Ba gầy gò với nước da đen sạm trong bộ đồ tù màu nâu đất. Ba chẳng hề có một chút gì của ba mà tôi có trong đầu. Ba của tôi trong ký ức của một cô bé lúc hơn bảy tuổi thật oai hùng. Còn người đang đứng kia có những nét giống ba nhưng sao quá xa lạ trong cái đầu mười lăm tuổi của tôi lúc ấy. Tôi nhớ là mình buồn nhiều hơn vui trong ngày đó.
Không như hy vọng mà mẹ đã gieo trong đầu chúng tôi, ba trở về không làm cho cảnh nhà được khá hơn nhưng gia đình tôi bị chính quyền địa phương sách nhiễu mỗi ngày. Ba không được phép ở nhà vì giấy ra tù trả về nguyên quán, không phải là nơi gia đình tôi đang ở. Cái luật lệ quái đản đã làm cho gia đình tôi khổ sở hơn khi ba tôi còn ở trong tù. Ba tôi dĩ nhiên là không thể nào tìm được một việc làm nào để cùng mẹ nuôi sống gia đình. Tôi nhớ có những lần thấy ba nằm im trên gác, mắt nhìn lên trần nhà với gương mặt bất động. Tôi thấy mình thật thương ba và một lần tôi nằm xuống, gối đầu lên ngực ba và khóc. Ba vẫn nằm yên lặng không nói một lời. Trong hoàn cảnh đó, dẫu thương ba nhưng tôi vẫn không hề tự hào vì có ba. Mãi cho đến một hôm…
Lúc ấy tôi đậu lớp mười, chuyển lên trường huyện cách nhà gần hai cây số. Nhà chỉ có một chiếc xe đạp để mẹ đi bán nên tôi lội bộ đi học. Buổi sáng thường là không có gì ăn nên sau khi học xong năm tiết học với cái bụng đói cồn cào làm đường về nhà dường như xa vời vợi. Hôm đó, tôi cùng hai nhỏ bạn đang lê gót trên đường về nhà. Mắt tôi chợt thấy ba đang từ xa đạp xe đến gần. Tôi đang băn khoăn không biết ba đang đi đâu trên đường ấy thì xe ba đã đến gần. Ba nói: “Lên xe ba chở về con. Trời nắng nóng quá.” Tôi quên cả chào hai đứa bạn, vội vàng lên xe ngay. Tôi nghe giọng ba vang lên: “ Hai cháu từ từ về sau nghe. Bác chở con ni về trước.” Tôi ngoáy đầu vẫy tay với hai nhỏ bạn và bắt gặp ánh mắt ganh tỵ của tụi nó. Lần đầu tiên tôi thấy mình hạnh phúc vì có ba. Và kể từ hôm ấy, ngày nào mẹ về sớm, ba thường chở tôi về sau mỗi buổi học.
Niềm hạnh phúc giản đơn của tôi không kéo dài lâu. Vì không chịu nỗi sự sách nhiễu của công an địa phương, ba tôi quyết định vào Nam lập nghiệp với cậu em út của tôi lúc bấy giờ mới học lớp sáu. Tôi thì đến một năm sau, khi học xong lớp mười hai mới rời cái thị xã nhỏ bé nhưng đầy ắp kỷ niệm để vào Nam với ba hy vọng sẽ dễ thở hơn. Khi tôi vào đến nơi, thấy căn nhà lá vách đất nằm lọt thỏm trong đám cây cỏ đang vượt lên giữa mùa mưa, tôi thấy tương lai mịt mờ như những trận mưa chiều ấy. Cùng ba cuốc đất, cấy gặt một năm, tôi được đi học sư phạm ở tỉnh vì nhờ các trường ở địa phương đang thiếu giáo viên trầm trọng. Mỗi lần về thăm ba, tôi phải mượn tiền bạn để đón xe về. Ba ruộng rẫy chẳng được mấy đồng nên tiền ba cho chỉ đủ cho tôi đón xe trở lại trường và trả tiền lại cho bạn. Những lần về thăm nhà ngắn ngủi ấy, tôi hay kể về chuyện trường lớp học hành và sinh hoạt của tôi. Tôi mong ước có một cây đàn ghi-ta để chị em tôi cùng học đàn cho vui. Nhưng tôi không hề mở miệng vì tôi biết ba không có một khoản tiền dư nào cho niềm mơ ước viễn vông đó. Có lẽ ba hiểu được niềm mơ ước của chị em tôi nên cuối năm học ấy, ba cho tiền để mua một cây đàn ghi-ta. Tôi nhớ đó là số tiền bán một con heo ba nuôi cả năm. Có lẽ đó là món quà lớn nhất mà chị em tôi nhận được.
Rồi gia đình tôi khăn gói sang Mỹ với ba theo diện HO. Những năm đầu thật chật vật vì chị em chúng tôi mãi lo đèn sách nên chỉ đi làm lúc hết mùa học. Mẹ tôi thì đau yếu hoài nên cũng không làm được việc gì ra tiền. Ba dẫu sấp xỉ sáu lăm nhưng vẫn ráng thi lấy bằng lái xe rồi đi kiếm việc làm. Công việc ở xưởng may rất nhiều giờ nên nhiều khi ba về tôi thấy mắt ba hằn dấu kính đeo. Rồi chị em tôi ra trường kiếm được việc làm, lập gia đình, rồi con cái. Ba dẫu nghỉ việc nhưng rất bận bịu giúp đỡ chị em tôi. Khi thì làm vườn, lúc thì tưới cây. Hôm thì đi xe lửa lên nhà đứa này trông coi nhà cửa rồi vội vàng về giúp chở con đứa kia đi học. Nhất là các cháu nội ngoại, đứa nào cũng mê ba tôi hết. Chị em tôi hay nói đùa, “Ba có bùa. Đụng tay vô đứa cháu nào là đứa đó dính vô ông cứng ngắc.”
Ba tôi rất tiết kiệm lời khen với chị em tôi nhưng luôn rộng rãi những lời khen tặng với đám cháu. Lúc nào ba cũng mở đầu với một câu quen thuộc, “Tụi bay hồi nhỏ đâu bằng mấy đứa này.” Rồi cứ thế thêm vào. “ Thằng ni mới mười tuổi mà đã đánh đàn được cho nhà thờ. Thằng em hắn cũng rứa. Mà hắn khôn lắm. Lâu lắm mới gặp ông ngoại nhưng mà vưà gặp là hắn giang tay chạy lại ôm ngoại liền. Thằng ni cũng rứa. Ông nội đi tới mấy tuần, rứa mà vưà về tới nhà là hắn trườn qua đòi bồng. Hắn mới hơn một tuổi chớ mấy. Còn con ni mới gần ba tuổi mà thuộc hết mấy bài hát của bé Xuân Mai.” Tôi đang thầm nghĩ không biết ba tôi sẽ có lời khen gì cho qúy tử của tôi. Bởi vì cu cậu cũng gần ba tuổi nhưng chỉ có mỗi một bài “ABCDEFG” nghêu ngao suốt ngày. Vậy mà ba tôi cũng kiếm được một lời khen cho cu cậu. “ Hắn giỏi lắm chớ. Mới hơn hai tuổi mà vô nhà là biết cởi giày ra. Đi đâu là biết lựa giày cho hợp chỗ đó…” Chị em tôi hay đùa trở lại mỗi khi nghe ba khen đám cháu. “Tụi con hồi nhỏ cũng giỏi cỡ vậy chớ bộ. Chỉ có điều là ba đi tù nên không biết thôi.” Ba tôi cười, “ Tụi bay dở khính.”
Ba tôi là người chẳng hề có tiếng tăm lừng lẫy ngòai đời, nhưng những ai đã từng tiếp xúc với ba tôi đều mến ba. Nhiều vị lão niên trong Hội thánh nhờ ba tôi chở đi khám bịnh hay mua thuốc, ba tôi đều vui vẻ giúp. Bạn bè của chị em chúng tôi đứa nào cũng mến ông vì cái xuề xoà vui vẻ của ba. Nhưng tôi cảm ơn Thượng đế đã cho tôi có ba, một người cha biết chăm lo cho gia đình và yêu thương con cháu. Dù rằng nhiều lần tôi ước phải chi ba tôi biết khích lệ và khen tặng chị em tôi nhiều hơn, nhưng tôi nhớ lại những kỷ niệm mà tôi đã có với ba và thấy mình thật hạnh phúc. Cảm ơn ba!
Thuỷ Như
* Ba tôi đi tù cải tạo ở Tiên lãnh