Kính tặng thầy Lê Văn Cường
Tôi lướt mắt qua chồng sách mới mượn, nhẩm đọc tên từng cuốn. “Đọc cuốn mỏng nhất vậy. Mình có thể đọc xong cuốn “The Princess Bride” này trong một ngày. Còn dư thời gian để ngẫm nghĩ và chuẩn bị cho những ngày làm việc sắp tới.” Tôi lẩm nhẩm trong đầu. Tôi bị cuốn hút ngay từ lời dẫn truyện. Một kỷ niệm về một cô giáo thời tiểu học với những lời khích lệ chân tình đã theo cậu học trò bao nhiêu năm. Thời gian trôi và cậu học trò lơ đãng thuở bé đã trở thành một cây viết thành công. Cậu đã gởi đến cô giáo một cuốn sách của mình với lời nhận xét của cô giáo ngày xưa.
Tôi gấp sách lại, nhìn ra sân cỏ xanh bên cửa sổ. Tôi quyết định ngưng đọc để viết một bài về thầy giáo của mình. Tôi phải làm cái việc đã dự tính trong đầu từ khi còn học trong lớp của thầy. Tôi đã dự tính rằng khi nào mình thành công thì sẽ về thăm thầy hoặc là sẽ vinh danh thầy qua báo chí, sách vở. Nhưng rồi tôi không giỏi, cũng không tài năng để nổi tiếng, để vinh danh thầy như dự tính. Song tôi đã nhiều lần viết về thầy. Đó là những bài essay cho các lớp ESL và English. Chẳng biết các giáo sư có cảm nhận tấm lòng biết ơn của tôi với người thầy yêu kính ngày xưa không, bởi những bài viết của tôi đỏ choí với những lỗi văn phạm và câu cú, cùng với những câu hỏi về lối hành văn chẳng Mỹ tí nào. Bài viết này thì chắc chắn không tiếng tăm như của Goldman nhưng tôi hy vọng cuối cùng sẽ đến tay thầy cùng với tấm lòng kính trọng của tôi. Tôi mở computer và bắt đầu đánh máy. Hình ảnh của những giờ Toán năm học lớp mười hai ở trường Trần Cao Vân năm nào từ từ trở về trong trí nhớ.
Một con bé ốm tong teo trong cái aó trắng đã ngả vàng đứng giải bài khảo sát hàm số trên bảng. Thầy giáo đẹp và sang giống như trong những truyện Tuổi hoa mà con bé từng lén đọc. Chỉ có điều là con bé chỉ là một đứa học trò bình thường, quê mùa, không tiếng tăm về sắc đẹp lẫn học hành và thầy đang chăm chú theo dõi nó trình bày bài tóan. Cả lớp bỗng dưng yên lặng đến lạ. Con bé chỉ nghe có tiếng phấn cọ vào bảng và tiếng trống thình thịch trong ngực. Tất cả bắt đầu từ một nhỏ ngồi chung bàn với nó, bị thầy gọi lên bảng làm tóan nhưng bị bí. Con bé ngồi bàn đầu nên thì thào ráng nhắc cho bạn bước tiếp theo. Thầy xem bài giải của Tuấn “khều” vừa xong, quay qua bắt gặp con bé đang nhép miệng nho nhỏ. Thầy nheo mắt hỏi: “ Cô kia có biết làm không mà nhắc?” “Dạ biết.” “Đừng cầm vở, lên bảng làm tiếp được không?” “Dạ được.” Con bé không tin đó là những câu trả lời từ miệng mình. Tự tin và bướng bỉnh, mặc dầu có thưa gởi đàng hoàng. Con bé cũng đọc trong mắt thầy sự ngạc nhiên nhưng không có sự tức giận.
Sự bướng bỉnh gần như thách đố của con bé không phải là không có nguyên nhân. Con bé không thích thầy ngay từ ngày đầu tiên thầy bước vào lớp của nó. Thầy đẹp và sang trọng trong bộ đồ rất mới với cặp da trên tay bước vào lớp. Đôi giày da của thầy vang lên trong lớp giống hệt như những ông thầy được viết trong truyện trước năm bảy lăm. Chữ thầy viết đẹp như in. Giọng thầy không lớn, chỉ vừa đủ nghe và vừa đủ để giữ khoảng cách giưã thầy và trò. Chẳng hiểu sao con bé không thích cái hoàn hảo rất giáo sư của thầy, cái hòan hảo chỉ có trong truyện mà con bé rất thích. Có lẽ vì thầy quá xa vời với cái thế giới nghèo của nó. Ngày hôm sau trong khi cả lớp trầm trồ với cái xe cúp màu mận chín của thầy, con bé càng thấy không thể có thiện chí với thầy. Cái thời buổi mà thầy cô đi dạy hưởng theo tiêu chuẩn tem phiếu và rất nhiều học trò như con bé không đủ cơm ăn mỗi ngày thì những gì thầy có, có cái gì đó không đúng. Chiếc xe cúp màu mận chín của thầy chỉ xuất hiện trong sân trường chỉ một vài lần rồi sau đó con bé thường thấy thầy đến trường bằng chiếc xe đạp phượng hòang. Dẫu không sang bằng chiếc xe cúp nhưng cũng đủ để con bé nghĩ rằng thầy không bao giờ cảm thông với nó. Và nó quyết định sẽ không để thầy có một cơ hội để coi thưòng thế giới nghèo của nó.
Chẳng biết vì cái quyết tâm “đổi đời” của con bé, hay vì thầy dạy rất hay, mà con bé học hành sáng sủa ra trong môn Tóan. Bạn bè cũng phải ngạc nhiên vì sự tiến bộ của nó. Một con bé học hành lúc nào vừa đủ đậu bỗng dưng dám tranh luận những bài toán “giải tích” với những cây tóan Ngọc Thịnh, Quốc Việt, Hữu Sơn…Nhưng mà bây giờ thì con bé đang bí trên bảng. Con bé lúng túng vì không hiểu tại sao hàm số không đổi dấu theo như nó dự tính. Con bé nghe giọng thầy vang lên: “ Nhìn lại miền xác định xem nào.” “Ô, đường tiệm cận.” Con bé nghe mình reo lên, rồi nó nghe thầy bảo: “Thôi được rồi. Em về chỗ.” Suốt giờ học đó, con bé như say với thành tích của mình. Dẫu rằng thầy có gợi ý cho nó nhưng con bé đã chứng tỏ được sự hiểu biết của mình qua bài giải.
Nhưng mà môn hình học không gian thì quả là một bức tường sắt đối với con bé. Chẳng phải mình con bé nhưng rất nhiều đứa trong lớp ngán môn này từ lớp mười một. Thầy đã làm cả lớp ngạc nhiên đến há miệng với những hình vẽ không gian ba chiều của thầy. Những viên phấn màu (thật là sang thời bấy giờ) đã làm cho những bài toán trở nên rõ ràng, dễ hiểu. Nhiều đứa ước có thể đem những hình vẽ của thầy về nhà. Con bé ước gì mình có thể vẽ được giống như thầy thì chắc hẳn những bài toán không gian sẽ không còn khó nữa. Con bé cảm thấy bực mình với tài năng hạn hẹp của mình. Một lần nữa, con bé nhận thấy cái hòan hảo của thầy thật giống như trong truyện.
Cuối tháng chín, cái nắng của miền Trung vẫn còn gay gắt. Ra khỏi lớp, con bé cùng với nhỏ bạn vội vàng đạp xe về nhà. Con đường Nguyễn Du nhỏ hẹp tràn ngập với những đám học trò đua nhau đạp xe trên đường. Vượt qua vài nhóm học trò, Kiều Hạnh với tay khều nó. “Thầy kìa.” Đúng là thầy trên chiếc xe đạp phượng hòang, thong thả đạp như thể đang dạo mát trên đường phố. Con bé vội vàng thắng xe chậm lại đưa mắt nhìn Kiều Hạnh hỏi: “Làm răng chừ?” “ Chạy chậm đằng sau ổng. Tới ngã ba Nguyễn Thái Học mình quẹo.” “Nhưng mà tau phải về nhà ngay để chị tau kịp đi bán hàng buổi chiều. Đi chậm như ổng chừng nào mới tới nhà?” Một tốp học sinh vừa lướt qua. Kiều Hạnh nháy mắt. “Lướt theo tụi nó. Ổng không nhận ra tụi mình đâu.” Con bé gật đầu nhấn bàn đạp phóng theo đám học trò. Nó mím môi đạp nhanh khi lướt qua thầy. Nhưng con bé nghe thầy gọi tên nó. Con bé thắng xe chậm lại theo phản xạ tự nhiên, Kiều Hạnh thì đã mất dạng trong đám học trò đằng trước và nó thấy thầy đang đạp xe bên cạnh nó. “Đi đâu mà phóng xe nhanh dữ vậy?” “Dạ em phải về nhà…” Con bé dừng lại giữa chừng. Nó không muốn tiết lộ gia cảnh của nó. Con bé nghe thầy hỏi tiếp: “Em định thi vào trường nào?” “ Dạ em chưa biết.” “Nhưng mà em sẽ thi chớ?” “Dạ có.” “Vậy có định ôn thi chưa?” “Dạ chưa.” “Thầy đang dạy một nhóm ôn thi. Nếu em muốn, em có thể hỏi Thanh Nga.” “Dạ cám ơn thầy. Thưa thầy em về ngõ này.” Nó thấy thầy gật đầu mỉm cười.
Vừa phóng xe trên đường, con bé vừa nghĩ về những gì mới xảy ra. Vậy là thầy biết tên nó, thầy nhận ra nó giữa đám đông, thầy nói chuyện với nó. Con bé cảm thấy mình dường như được nổi danh, được có tên tuổi trong trường lớp. Con bé ngạc nhiên vì thầy muốn nó đi học chung nhóm với Thanh Nga, nhóm bạn nhà giàu. Tại sao thầy không nhận ra cái quê mùa lạc hậu trong cách ăn mặc của nó? Tại sao thầy nghĩ nhóm bạn áo quần lượt là, tha thướt kia có thể chấp nhận nó học chung? “Ơ, nhưng mà thầy chỉ hỏi nó chuyện thi đại học. Điều đó có thể nói là thầy chỉ nhận ra nó trong học tập mà thôi.” Con bé vui với suy nghĩ đó và cảm thấy thầy không còn cách xa với thế giới nghèo của nó nữa.
Con bé ghét cái lạnh và mùa mưa của miền Trung bởi lẽ nhà nó không có một cái áo mưa nào cả và nó thì phải mặc khính cái áo len cũ “bảy đời” của chị nó. Con bé biết mình không đẹp và càng cảm thấy mình xấu hơn trong miếng choàng che mưa không lành lặn cho lắm. Chưa hết con bé thấy mình lụm xụm trong cái áo len rộng xuyềnh xoàng của chị mỗi khi trời lạnh. Bởi vậy mỗi khi đi học, con bé cứ mặc hòai cái áo trắng cho dù ngoài trời đã chuyển sang mùa đông. Thầy nhiều lần hỏi nó: “Không thấy lạnh hay sao mà không mặc áo ấm.” Con bé ngượng nghiụ trả lời: “ Dạ em chưa thấy lạnh lắm.”
Nhưng rồi một hôm con bé không thắng nổi cái lạnh. Nó gục xuống bàn và run lên cầm cập trong lúc cả lớp đang làm bài kiểm tra hình không gian. Con bé nghe giọng thầy xa xôi trong lúc nó đang ngất đi. “Em lạnh có phải không?” Sau này Thanh Tuyền ngồi kế bên kể lại: “Thầy thấy học trò cưng của thầy lạnh run. Thầy lo qúa chừng. Tau mà không cỡi áo lạnh của tau chòang cho mi chắc thầy sẽ làm lắm.” Con bé vội vàng ngắt lời bạn. “Nhờ vậy mà tau thoát khỏi bài kiểm tra hình học không vô, ý quên hình học không gian.”
Con bé cảm thấy thầy gần hơn với thế gìới nghèo khó và khổ cực của nó khi nó biết thầy phải giúp vợ đi chở hàng buôn bán. Nhưng nó cảm thấy một chút hụt hẫng. Thầy của nó giỏi, dạy thật hay và yêu nghề dạy nhưng không thể sống với đồng lương của nghề dạy. Thầy phải bươn chãi kiếm sống trong thế giới mà nó nghĩ là không phải của thầy. Rồi con bé tốt nghiệp lớp mười hai, rời thị xã nhỏ bé miền Trung với những dòng lưu bút của bạn bè và thầy cô trong đó có những nét chữ thật đẹp của thầy. Tiếp theo tên cuả con bé thầy viết: “ - Cô học trò nhỏ nhắn nhưng nhanh nhẹn của thầy. Thầy không được vinh dự theo dạy các em suốt ba năm ở bậc trung học này, nhưng chỉ một năm thôi đã đủ để cho thầy thấy gắn bó với cái tập thể 12/1 - một tập thể trẻ trung, sôi nổi, cởi mở, say mê làm việc và làm việc có kết quả này, và trong đó nổi lên cô học trò nhỏ với khuôn mặt thông minh, cái nhìn thật trong sáng…”
Có lẽ thầy là người đầu tiên tặng cho con bé chữ “thông minh” và nó tin điều thầy nói. Lời nhận xét của thầy theo suốt những năm tháng khó khăn, tăm tối của con bé. Những ngày cúi mặt cấy lúa, làm cỏ, nhổ đậu, trồng khoai nơi miền quê heo hút ở miền Nam, những buổi tối cặm cụi trên bàn máy may những ngày đầu mới đến Mỹ, những lần đứng làm việc suốt ngày trong những assembly lines; con bé luôn nhớ lại lời thầy viết cho nó, “khuôn mặt thông minh, cái nhìn trong sáng.” Thầy nhìn thấy nơi con bé điều đó thì nó nhất định phải học được, phải trở thành cô giáo như thầy ngày xưa. Và rồi con bé ngày xưa bây giờ đã là cô giáo dạy Toán.
Tôi chẳng thể nào sánh được với thầy nhưng tôi cũng có những học trò cũ thỉnh thoảng trở lại hỏi thăm. Năm nào tôi cũng nghe vài đứa học trò hỏi: “Cô ơi! Chắc là cô lúc nào cũng được điểm A trong môn Toán phải không?” “Không có đâu. Những năm trung học, cô lúc nào cũng vưà đủ điểm để được lên lớp, ngoại trừ năm cuối cùng ở trung học thì khá hơn một chút.” Và rồi tôi thường kể cho học trò nghe về thầy với lòng kính trọng. Trong lưu bút của tôi, thầy viết: “…đôi mắt sáng ấy, cái nhìn rạng rỡ ấy khiến thầy thêm yêu nghề và càng hết lòng vì các em…” Ngày ấy tôi không hiểu những dòng chữ của thầy. Nhưng bây giờ mỗi khi đang đứng lớp giảng bài, nhìn thấy ánh mắt những học trò chăm chú nghe giảng, tôi hiểu được những gì thầy viết năm xưa. Tôi ước mong mình có thể khích lệ niềm tự tin trong một đưá học trò như thầy đã làm cho tôi năm ấy. Cảm ơn thầy đã nhận ra em trong đám đông học trò trên đường phố. Cảm ơn thầy đã quan tâm đến một đứa học trò nghèo như em. Và hơn hết, cảm ơn thầy đã giúp em có niềm tin vào khả năng của chính mình. Cô học trò nhỏ nhắn của thầy xưa đã tin vào nhận xét của thầy để rồi hôm nay cô học trò ấy bước vào đời với nghề dạy học giống thầy vậy đó.
Viết xong 2005
Chỉnh sửa 2015
Tôi lướt mắt qua chồng sách mới mượn, nhẩm đọc tên từng cuốn. “Đọc cuốn mỏng nhất vậy. Mình có thể đọc xong cuốn “The Princess Bride” này trong một ngày. Còn dư thời gian để ngẫm nghĩ và chuẩn bị cho những ngày làm việc sắp tới.” Tôi lẩm nhẩm trong đầu. Tôi bị cuốn hút ngay từ lời dẫn truyện. Một kỷ niệm về một cô giáo thời tiểu học với những lời khích lệ chân tình đã theo cậu học trò bao nhiêu năm. Thời gian trôi và cậu học trò lơ đãng thuở bé đã trở thành một cây viết thành công. Cậu đã gởi đến cô giáo một cuốn sách của mình với lời nhận xét của cô giáo ngày xưa.
Tôi gấp sách lại, nhìn ra sân cỏ xanh bên cửa sổ. Tôi quyết định ngưng đọc để viết một bài về thầy giáo của mình. Tôi phải làm cái việc đã dự tính trong đầu từ khi còn học trong lớp của thầy. Tôi đã dự tính rằng khi nào mình thành công thì sẽ về thăm thầy hoặc là sẽ vinh danh thầy qua báo chí, sách vở. Nhưng rồi tôi không giỏi, cũng không tài năng để nổi tiếng, để vinh danh thầy như dự tính. Song tôi đã nhiều lần viết về thầy. Đó là những bài essay cho các lớp ESL và English. Chẳng biết các giáo sư có cảm nhận tấm lòng biết ơn của tôi với người thầy yêu kính ngày xưa không, bởi những bài viết của tôi đỏ choí với những lỗi văn phạm và câu cú, cùng với những câu hỏi về lối hành văn chẳng Mỹ tí nào. Bài viết này thì chắc chắn không tiếng tăm như của Goldman nhưng tôi hy vọng cuối cùng sẽ đến tay thầy cùng với tấm lòng kính trọng của tôi. Tôi mở computer và bắt đầu đánh máy. Hình ảnh của những giờ Toán năm học lớp mười hai ở trường Trần Cao Vân năm nào từ từ trở về trong trí nhớ.
Một con bé ốm tong teo trong cái aó trắng đã ngả vàng đứng giải bài khảo sát hàm số trên bảng. Thầy giáo đẹp và sang giống như trong những truyện Tuổi hoa mà con bé từng lén đọc. Chỉ có điều là con bé chỉ là một đứa học trò bình thường, quê mùa, không tiếng tăm về sắc đẹp lẫn học hành và thầy đang chăm chú theo dõi nó trình bày bài tóan. Cả lớp bỗng dưng yên lặng đến lạ. Con bé chỉ nghe có tiếng phấn cọ vào bảng và tiếng trống thình thịch trong ngực. Tất cả bắt đầu từ một nhỏ ngồi chung bàn với nó, bị thầy gọi lên bảng làm tóan nhưng bị bí. Con bé ngồi bàn đầu nên thì thào ráng nhắc cho bạn bước tiếp theo. Thầy xem bài giải của Tuấn “khều” vừa xong, quay qua bắt gặp con bé đang nhép miệng nho nhỏ. Thầy nheo mắt hỏi: “ Cô kia có biết làm không mà nhắc?” “Dạ biết.” “Đừng cầm vở, lên bảng làm tiếp được không?” “Dạ được.” Con bé không tin đó là những câu trả lời từ miệng mình. Tự tin và bướng bỉnh, mặc dầu có thưa gởi đàng hoàng. Con bé cũng đọc trong mắt thầy sự ngạc nhiên nhưng không có sự tức giận.
Sự bướng bỉnh gần như thách đố của con bé không phải là không có nguyên nhân. Con bé không thích thầy ngay từ ngày đầu tiên thầy bước vào lớp của nó. Thầy đẹp và sang trọng trong bộ đồ rất mới với cặp da trên tay bước vào lớp. Đôi giày da của thầy vang lên trong lớp giống hệt như những ông thầy được viết trong truyện trước năm bảy lăm. Chữ thầy viết đẹp như in. Giọng thầy không lớn, chỉ vừa đủ nghe và vừa đủ để giữ khoảng cách giưã thầy và trò. Chẳng hiểu sao con bé không thích cái hoàn hảo rất giáo sư của thầy, cái hòan hảo chỉ có trong truyện mà con bé rất thích. Có lẽ vì thầy quá xa vời với cái thế giới nghèo của nó. Ngày hôm sau trong khi cả lớp trầm trồ với cái xe cúp màu mận chín của thầy, con bé càng thấy không thể có thiện chí với thầy. Cái thời buổi mà thầy cô đi dạy hưởng theo tiêu chuẩn tem phiếu và rất nhiều học trò như con bé không đủ cơm ăn mỗi ngày thì những gì thầy có, có cái gì đó không đúng. Chiếc xe cúp màu mận chín của thầy chỉ xuất hiện trong sân trường chỉ một vài lần rồi sau đó con bé thường thấy thầy đến trường bằng chiếc xe đạp phượng hòang. Dẫu không sang bằng chiếc xe cúp nhưng cũng đủ để con bé nghĩ rằng thầy không bao giờ cảm thông với nó. Và nó quyết định sẽ không để thầy có một cơ hội để coi thưòng thế giới nghèo của nó.
Chẳng biết vì cái quyết tâm “đổi đời” của con bé, hay vì thầy dạy rất hay, mà con bé học hành sáng sủa ra trong môn Tóan. Bạn bè cũng phải ngạc nhiên vì sự tiến bộ của nó. Một con bé học hành lúc nào vừa đủ đậu bỗng dưng dám tranh luận những bài toán “giải tích” với những cây tóan Ngọc Thịnh, Quốc Việt, Hữu Sơn…Nhưng mà bây giờ thì con bé đang bí trên bảng. Con bé lúng túng vì không hiểu tại sao hàm số không đổi dấu theo như nó dự tính. Con bé nghe giọng thầy vang lên: “ Nhìn lại miền xác định xem nào.” “Ô, đường tiệm cận.” Con bé nghe mình reo lên, rồi nó nghe thầy bảo: “Thôi được rồi. Em về chỗ.” Suốt giờ học đó, con bé như say với thành tích của mình. Dẫu rằng thầy có gợi ý cho nó nhưng con bé đã chứng tỏ được sự hiểu biết của mình qua bài giải.
Nhưng mà môn hình học không gian thì quả là một bức tường sắt đối với con bé. Chẳng phải mình con bé nhưng rất nhiều đứa trong lớp ngán môn này từ lớp mười một. Thầy đã làm cả lớp ngạc nhiên đến há miệng với những hình vẽ không gian ba chiều của thầy. Những viên phấn màu (thật là sang thời bấy giờ) đã làm cho những bài toán trở nên rõ ràng, dễ hiểu. Nhiều đứa ước có thể đem những hình vẽ của thầy về nhà. Con bé ước gì mình có thể vẽ được giống như thầy thì chắc hẳn những bài toán không gian sẽ không còn khó nữa. Con bé cảm thấy bực mình với tài năng hạn hẹp của mình. Một lần nữa, con bé nhận thấy cái hòan hảo của thầy thật giống như trong truyện.
Cuối tháng chín, cái nắng của miền Trung vẫn còn gay gắt. Ra khỏi lớp, con bé cùng với nhỏ bạn vội vàng đạp xe về nhà. Con đường Nguyễn Du nhỏ hẹp tràn ngập với những đám học trò đua nhau đạp xe trên đường. Vượt qua vài nhóm học trò, Kiều Hạnh với tay khều nó. “Thầy kìa.” Đúng là thầy trên chiếc xe đạp phượng hòang, thong thả đạp như thể đang dạo mát trên đường phố. Con bé vội vàng thắng xe chậm lại đưa mắt nhìn Kiều Hạnh hỏi: “Làm răng chừ?” “ Chạy chậm đằng sau ổng. Tới ngã ba Nguyễn Thái Học mình quẹo.” “Nhưng mà tau phải về nhà ngay để chị tau kịp đi bán hàng buổi chiều. Đi chậm như ổng chừng nào mới tới nhà?” Một tốp học sinh vừa lướt qua. Kiều Hạnh nháy mắt. “Lướt theo tụi nó. Ổng không nhận ra tụi mình đâu.” Con bé gật đầu nhấn bàn đạp phóng theo đám học trò. Nó mím môi đạp nhanh khi lướt qua thầy. Nhưng con bé nghe thầy gọi tên nó. Con bé thắng xe chậm lại theo phản xạ tự nhiên, Kiều Hạnh thì đã mất dạng trong đám học trò đằng trước và nó thấy thầy đang đạp xe bên cạnh nó. “Đi đâu mà phóng xe nhanh dữ vậy?” “Dạ em phải về nhà…” Con bé dừng lại giữa chừng. Nó không muốn tiết lộ gia cảnh của nó. Con bé nghe thầy hỏi tiếp: “Em định thi vào trường nào?” “ Dạ em chưa biết.” “Nhưng mà em sẽ thi chớ?” “Dạ có.” “Vậy có định ôn thi chưa?” “Dạ chưa.” “Thầy đang dạy một nhóm ôn thi. Nếu em muốn, em có thể hỏi Thanh Nga.” “Dạ cám ơn thầy. Thưa thầy em về ngõ này.” Nó thấy thầy gật đầu mỉm cười.
Vừa phóng xe trên đường, con bé vừa nghĩ về những gì mới xảy ra. Vậy là thầy biết tên nó, thầy nhận ra nó giữa đám đông, thầy nói chuyện với nó. Con bé cảm thấy mình dường như được nổi danh, được có tên tuổi trong trường lớp. Con bé ngạc nhiên vì thầy muốn nó đi học chung nhóm với Thanh Nga, nhóm bạn nhà giàu. Tại sao thầy không nhận ra cái quê mùa lạc hậu trong cách ăn mặc của nó? Tại sao thầy nghĩ nhóm bạn áo quần lượt là, tha thướt kia có thể chấp nhận nó học chung? “Ơ, nhưng mà thầy chỉ hỏi nó chuyện thi đại học. Điều đó có thể nói là thầy chỉ nhận ra nó trong học tập mà thôi.” Con bé vui với suy nghĩ đó và cảm thấy thầy không còn cách xa với thế giới nghèo của nó nữa.
Con bé ghét cái lạnh và mùa mưa của miền Trung bởi lẽ nhà nó không có một cái áo mưa nào cả và nó thì phải mặc khính cái áo len cũ “bảy đời” của chị nó. Con bé biết mình không đẹp và càng cảm thấy mình xấu hơn trong miếng choàng che mưa không lành lặn cho lắm. Chưa hết con bé thấy mình lụm xụm trong cái áo len rộng xuyềnh xoàng của chị mỗi khi trời lạnh. Bởi vậy mỗi khi đi học, con bé cứ mặc hòai cái áo trắng cho dù ngoài trời đã chuyển sang mùa đông. Thầy nhiều lần hỏi nó: “Không thấy lạnh hay sao mà không mặc áo ấm.” Con bé ngượng nghiụ trả lời: “ Dạ em chưa thấy lạnh lắm.”
Nhưng rồi một hôm con bé không thắng nổi cái lạnh. Nó gục xuống bàn và run lên cầm cập trong lúc cả lớp đang làm bài kiểm tra hình không gian. Con bé nghe giọng thầy xa xôi trong lúc nó đang ngất đi. “Em lạnh có phải không?” Sau này Thanh Tuyền ngồi kế bên kể lại: “Thầy thấy học trò cưng của thầy lạnh run. Thầy lo qúa chừng. Tau mà không cỡi áo lạnh của tau chòang cho mi chắc thầy sẽ làm lắm.” Con bé vội vàng ngắt lời bạn. “Nhờ vậy mà tau thoát khỏi bài kiểm tra hình học không vô, ý quên hình học không gian.”
Con bé cảm thấy thầy gần hơn với thế gìới nghèo khó và khổ cực của nó khi nó biết thầy phải giúp vợ đi chở hàng buôn bán. Nhưng nó cảm thấy một chút hụt hẫng. Thầy của nó giỏi, dạy thật hay và yêu nghề dạy nhưng không thể sống với đồng lương của nghề dạy. Thầy phải bươn chãi kiếm sống trong thế giới mà nó nghĩ là không phải của thầy. Rồi con bé tốt nghiệp lớp mười hai, rời thị xã nhỏ bé miền Trung với những dòng lưu bút của bạn bè và thầy cô trong đó có những nét chữ thật đẹp của thầy. Tiếp theo tên cuả con bé thầy viết: “ - Cô học trò nhỏ nhắn nhưng nhanh nhẹn của thầy. Thầy không được vinh dự theo dạy các em suốt ba năm ở bậc trung học này, nhưng chỉ một năm thôi đã đủ để cho thầy thấy gắn bó với cái tập thể 12/1 - một tập thể trẻ trung, sôi nổi, cởi mở, say mê làm việc và làm việc có kết quả này, và trong đó nổi lên cô học trò nhỏ với khuôn mặt thông minh, cái nhìn thật trong sáng…”
Có lẽ thầy là người đầu tiên tặng cho con bé chữ “thông minh” và nó tin điều thầy nói. Lời nhận xét của thầy theo suốt những năm tháng khó khăn, tăm tối của con bé. Những ngày cúi mặt cấy lúa, làm cỏ, nhổ đậu, trồng khoai nơi miền quê heo hút ở miền Nam, những buổi tối cặm cụi trên bàn máy may những ngày đầu mới đến Mỹ, những lần đứng làm việc suốt ngày trong những assembly lines; con bé luôn nhớ lại lời thầy viết cho nó, “khuôn mặt thông minh, cái nhìn trong sáng.” Thầy nhìn thấy nơi con bé điều đó thì nó nhất định phải học được, phải trở thành cô giáo như thầy ngày xưa. Và rồi con bé ngày xưa bây giờ đã là cô giáo dạy Toán.
Tôi chẳng thể nào sánh được với thầy nhưng tôi cũng có những học trò cũ thỉnh thoảng trở lại hỏi thăm. Năm nào tôi cũng nghe vài đứa học trò hỏi: “Cô ơi! Chắc là cô lúc nào cũng được điểm A trong môn Toán phải không?” “Không có đâu. Những năm trung học, cô lúc nào cũng vưà đủ điểm để được lên lớp, ngoại trừ năm cuối cùng ở trung học thì khá hơn một chút.” Và rồi tôi thường kể cho học trò nghe về thầy với lòng kính trọng. Trong lưu bút của tôi, thầy viết: “…đôi mắt sáng ấy, cái nhìn rạng rỡ ấy khiến thầy thêm yêu nghề và càng hết lòng vì các em…” Ngày ấy tôi không hiểu những dòng chữ của thầy. Nhưng bây giờ mỗi khi đang đứng lớp giảng bài, nhìn thấy ánh mắt những học trò chăm chú nghe giảng, tôi hiểu được những gì thầy viết năm xưa. Tôi ước mong mình có thể khích lệ niềm tự tin trong một đưá học trò như thầy đã làm cho tôi năm ấy. Cảm ơn thầy đã nhận ra em trong đám đông học trò trên đường phố. Cảm ơn thầy đã quan tâm đến một đứa học trò nghèo như em. Và hơn hết, cảm ơn thầy đã giúp em có niềm tin vào khả năng của chính mình. Cô học trò nhỏ nhắn của thầy xưa đã tin vào nhận xét của thầy để rồi hôm nay cô học trò ấy bước vào đời với nghề dạy học giống thầy vậy đó.
Viết xong 2005
Chỉnh sửa 2015