Thân tặng các bạn 12/1 khoá 82-85
Nhìn những gương mặt bạn bè trong tấm hình ngày họp lớp do Hữu Việt gởi qua, nỗi nhớ Tam kỳ lại về đầy ắp trong tôi. Choáng ngập trong đầu tôi là những kỷ niệm với thầy cô và bè bạn trong ba năm ở Trung học Trần Cao Vân. Những kỷ niệm vẫn thường trở về trong giấc ngủ của tôi dẫu đã ba mươi năm xa cách.
Ngày ấy tôi là một con bé ốm nhom háo hức cùng với bạn bè đến trường Trần Cao Vân để bắt đầu năm học lớp mười. Tôi vẫn nhớ cái cảm giác thật là người lớn khi mỗi ngày ôm cặp ra khỏi cái xóm ngã Tư của tôi để đi đến trường. Tôi không còn chơi với mấy đứa trong xóm nữa bởi tôi đã lên cấp ba, còn tụi nó thì nhỏ hơn tôi một cấp. Từ đó Tam kỳ với tôi là bạn bè trong lớp ở trường Trần Cao Vân. Mỗi ngày tôi với Quỳnh Hoa đi bộ quẹo qua đường Trần Dư rủ Thanh Thuỷ với Huỳnh Vân cùng đi đến trường. Mấy tháng sau, Quỳnh Hoa và Huỳnh Vân đậu vào trường chuyên Đà nẵng. Chỉ còn tôi với Thanh Thuỷ lội bộ mỗi ngày.
Chẳng hiểu sao trong ký ức tôi không có nhiều kỷ niệm của lớp mười và mười một. Cũng chừng ấy gương mặt nhưng đến năm mười hai đứa nào cũng khác hẳn ra. Nhiều thầy cô dạy chúng tôi hai năm đầu cũng nhận ra những thay đổi ấy. Tôi nhớ thầy Luyện điểm danh chúng tôi giống như mới gặp lần đầu dẫu rằng thầy dạy Hoá chúng tôi năm trước đó. “Các anh chị lớp này có tên giống như là diễn viên điện ảnh. Đoàn Triệu Mai Thoa, Lương Kim Đình Chính, Mai Hữu Sơn, Nguyễn Triệu Thanh Tuyền, Trương Phước Minh Trang, Trần Phan Huyền Trân, Trần Vũ Mỹ Trang....” Mà quả thật các nàng lớp tôi (trong đó không có tôi) rất đẹp. Tiếng tăm vượt ra khỏi biên giới Tam kỳ, đồn đến tận các trường đại học Đà nẵng, Huế, Sài gòn. Thời bấy giờ không có thi hoa khôi, hoa hậu chứ không thì các nàng của lớp tôi thể nào cũng đoạt giải. Còn các chàng của lớp tôi thì thành tích học hành sừng sỏ lắm. Ngọc Thịnh, Quốc Việt, Phi Thạnh, Bá Linh.... đã từng ở trong các đội học sinh giỏi các môn, đã từng đi thi huyện, tỉnh năm lớp chín. Tôi như một khán giả không tên tuổi đi xem một chương trình biểu diễn “live” mỗi ngày trong lớp tôi.
Năm mười hai tôi chơi thân với Kiều Hạnh. Hình như con gái trong lớp chỉ có tôi với Kiều Hạnh thi khối A nên trong lớp học luyện thi buổi tối ở nhà thầy Quân chỉ có tôi và nó lọt vào giữa đám con trai hơn mười đứa. Nhà thầy Quân ở đường Nguyễn Thái Học. Chín giờ tối tan học, đường tối om. Tôi sợ ma khi đi qua cánh đồng chỗ cống bà Xèng một mình nên thường đi với Kiều Hạnh vòng ra đường Phan Chu Trinh, rồi mới lên đường Huỳnh Thúc Kháng về nhà. Tôi thường bám theo Phi Thạnh và Ngọc Thịnh chạy nhanh qua quãng đường có cây đa cổ thụ trên chợ Mai một chút, nơi nổi tiếng những câu chuyện ma. Thời bấy giờ vì sợ bị ghép đôi nên bạn bè khác phái trong lớp chẳng bao giờ dám đạp xe song song trên đường. Bây giờ mỗi lần kể chuyện lớp ngày xưa, tuị tôi cứ cười không hiểu nỗi cái sợ hãi vu vơ của tuổi học trò ngày ấy.
Năm mười hai chúng tôi may mắn được học với những thầy cô có tiếng trong trường. Những bài giảng Cơ, Quang, Điện cuả thầy Quân theo tôi vào những lớp Lý trên đại học. Tôi là đứa chậm tiêu. Khi còn học với thầy thì lúc nào cũng vừa đủ điểm trung bình. Nhưng lúc lên đại học, không hiểu sao lại nhớ cách giải của thầy. Một giáo sư dạy Lý khen tôi có cách trình bày bài toán Vật lý hay và lạ. Cảm ơn thầy rất nhiều về những bài giảng trong ba năm cấp ba. Nhớ những lớp Toán cuả thầy Cường với hình vẽ không gian đẹp tuyệt vời. Thời bấy giờ cái gì cũng hiếm nhưng chẳng biết thầy tìm đâu ra mấy viên phấn màu. Chúng tôi cứ tròn mắt ra nhìn những hình không gian ba chiều hiện ra sau mỗi nét vẽ của thầy. Có lần thầy vẽ đẹp quá, chúng tôi cứ trầm trồ mãi không muốn xoá. Khi đến tiết kế tiếp, chúng tôi lại năn nỉ các thầy cô đừng lau bảng để dành hình cho đến cuối buổi học.
Nhớ những giờ học Sử với thầy Tâm. Thầy có mấy bộ sưu tập những hình ảnh màu các sự kiện và nhân vật lịch sử. Mỗi lần thầy dùng những hình ảnh rất đẹp này để minh hoạ cho bài giảng, những bài học lịch sử trở nên sinh động và dễ nhớ hơn. Nhớ những giờ học Anh văn với cô Thu Phúc. Cô thường đến lớp với những chiếc áo dài thật đẹp, quí phái như họ Tôn nữ của cô. Nhớ có lần cô dạy chúng tôi bài hát “Red river valley”. Nghe cô hát qua một lần, tôi thích ngay giai điệu bài hát. Vậy mà lớp tôi với những giọng ca khói sương huyền thoại như Minh Trang, Mỹ Trang, Mai Thoa, Bích Vân, Lệ Hải, Minh Đức, Hữu Việt, Thanh Yên… lại hát không ra tiếng. Chắc có lẽ vì trong bài hát có câu: “Then come sit by my side if you love me…”mà các ca sĩ lớp tôi mắc cỡ chăng? Thời học trò ngày xưa ngây thơ dễ thương quá!
Nhớ mấy giờ học Văn học lãng mạn với cô Nguyệt Thanh. Hình như hồi đó chương trình chỉ có hai tiết giới thiệu về Văn học lãng mạn. Cô dạy những bài thơ tình của Xuân Diệu, rồi những tác phẩm của Tự lực văn đoàn. Cô giảng ba hay bốn tiết gì đó, chúng tôi nghe say sưa. Nhớ hôm cô kể chuyện tình Vọi và Hiền trong tác phẩm “Trống mái” của Khái Hưng, chúng tôi ngồi nghe chăm chú quên mất tiếng trống báo đổi giờ. Đến khi thấy thầy Cường xuất hiện nơi cửa lớp, chúng tôi năn nỉ thầy cho xin thêm mười lăm phút để cô kể xong câu chuyện. Thầy rộng rãi cho nguyên một tiết học để cô kết thúc phần văn học lãng mạn. Sau mấy tiết học đó, tôi về nhà ông anh họ, lục tìm mấy cuốn sách trước bảy lăm đọc không sót cuốn nào. Tôi thấy nhiều chi tiết trong cuốn “Phê bình văn học nghệ thuật” cuả Hoài Thanh có trong bài giảng của cô nhưng không có trong sách giáo khoa thời đó. Cảm ơn cô về những bài văn, bài thơ và bài phê bình bị cấm để chúng tôi được thưởng thức một phần những tác phẩm tuyệt vời của văn học Việt nam.
Nhớ lúc học thi tốt nghiệp ở nhà Kiều Hạnh. Má nó thương tôi như con. Có lần tôi ở lại nhà nó học bài. Chúng tôi học trên lầu. Buổi tối nhìn ra, Kiều Hạnh chỉ ra đó là nhà Thuỷ lớp 12/2. Nhích qua xiú nữa là nhà Khắc Lắm, rồi hai chị em Huyền Trân và Quốc Việt. Xa hơn tí nưã là nhà Hữu Việt. Nhà nào cũng đèn sáng choang, chứng tỏ tuị nó còn thức. Mà tuị nó còn thức thì hai đứa tôi cũng không dám đi ngủ. Kiều Hạnh bàn, “Để tau pha cà phê uống.” Lần đầu tiên tôi nhấm ngụm cà phê đắng ngắt. Chẳng có gì ngon hết nhưng uống để thức. Chúng tôi chẳng thức mà lăn ra ngủ đến lúc mặt trời mọc lên xuyên qua cửa mà không biết. Má nó phải đánh thức tụi tôi dậy.
Năm đó thi tốt nghiệp bốn môn: Toán, Văn, Lý, Anh. Nếu không học Anh văn thì thi Sử. Dân khối A và khối D thích nhất vì vừa học thi tốt nghiệp và đại học được hai môn. Tôi nhớ Ngọc Thịnh chạy ngang qua nhà tôi reo lớn, “Toán, Văn, Lý, Anh”. Nhà Thịnh có radio nên biết tin tức sau nghe khi loan báo trên đài. (Thời bấy giờ không phải nhà nào cũng có radio.) Trong bốn môn đó, tôi sợ nhất là môn Văn. Ba môn kia thì học được nhưng môn Văn thì chẳng biết học làm sao. Hồi đó bài làm văn phải viết ít nhất là một tờ giấy đôi có bốn trang rứt ra từ vở học trò. Tôi chẳng bao giờ viết kín được ba trang. Tôi thường ráng viết chữ thật to. Rồi chưà bốn năm dòng cho phần điểm và lời phê. Vậy mà tôi cũng không thể nào lấp kín được đôi giấy. Bởi vậy môn viết văn của tôi năm nào cũng đều đặn từ bốn điểm rưỡi cho tới năm điểm rưỡi. Cộng trung bình, đủ điểm để lên lớp. Thi tốt nghiệp xong, tôi biết mình sẽ được hơn năm điểm ba môn kia. Nhưng môn Văn thì hồi hộp chờ kết quả. Nghe nói chấm bài chung toàn tỉnh và thầy cô trường Phan Chu Trinh, Đà nẵng thì chấm rất khó. Tôi sợ không biết mình có đậu không. Nghe cô Nguyệt Thanh, cũng là cô chủ nhiệm, đi chấm thi về, tôi chạy ra nhà cô hỏi thăm. Cô nói, “Cô không biết kết quả nhưng cách viết của em chắc chắn được năm điểm.”
Quả đúng vậy. Tôi được năm điểm. Mừng hết lớn. Mừng nhất là từ đó tôi không phải viết những gì tôi không muốn và không thích viết. Cảm ơn cô Nguyệt Thanh, người đã cho tôi những bài giảng để tôi biết thưởng thức được cái hay, cái đẹp trong những bài văn. Cảm ơn cô về những phần thưởng nho nhỏ khích lệ chúng tôi trong học tập. Những phần thưởng ấy là những gói kẹo hay cuốn sổ nhỏ cô mua phát thưởng cho tụi tôi từ tiền lương của cô, theo tôi biết là không nhiều lắm. Thế mới biết lòng yêu nghề của cô lớn thể nào. Tôi nhớ mãi lời nói của cô trong lần thăm cô trước khi chia tay Tam kỳ. “Ở đâu cũng phải làm việc. Bên đó giếng có thể sâu, nhưng em có niềm hy vọng là có nước để múc.” Tôi chẳng biết cô có khuyên ai câu này không, nhưng tôi cảm thấy câu này cô chỉ dành riêng cho tôi. Cảm ơn cô rất nhiều về triết lý sống này. Cảm ơn các bạn 12/1khoá 82-85 đã cho tôi những kỷ niệm rất đặc biệt trong đời. Những kỷ niệm không thể nào quên được. Những kỷ niệm làm tôi bay bổng những khi nhớ về tuổi học trò ở trường Trần Cao Vân năm nao.
Viết xong 7/2015
Nhìn những gương mặt bạn bè trong tấm hình ngày họp lớp do Hữu Việt gởi qua, nỗi nhớ Tam kỳ lại về đầy ắp trong tôi. Choáng ngập trong đầu tôi là những kỷ niệm với thầy cô và bè bạn trong ba năm ở Trung học Trần Cao Vân. Những kỷ niệm vẫn thường trở về trong giấc ngủ của tôi dẫu đã ba mươi năm xa cách.
Ngày ấy tôi là một con bé ốm nhom háo hức cùng với bạn bè đến trường Trần Cao Vân để bắt đầu năm học lớp mười. Tôi vẫn nhớ cái cảm giác thật là người lớn khi mỗi ngày ôm cặp ra khỏi cái xóm ngã Tư của tôi để đi đến trường. Tôi không còn chơi với mấy đứa trong xóm nữa bởi tôi đã lên cấp ba, còn tụi nó thì nhỏ hơn tôi một cấp. Từ đó Tam kỳ với tôi là bạn bè trong lớp ở trường Trần Cao Vân. Mỗi ngày tôi với Quỳnh Hoa đi bộ quẹo qua đường Trần Dư rủ Thanh Thuỷ với Huỳnh Vân cùng đi đến trường. Mấy tháng sau, Quỳnh Hoa và Huỳnh Vân đậu vào trường chuyên Đà nẵng. Chỉ còn tôi với Thanh Thuỷ lội bộ mỗi ngày.
Chẳng hiểu sao trong ký ức tôi không có nhiều kỷ niệm của lớp mười và mười một. Cũng chừng ấy gương mặt nhưng đến năm mười hai đứa nào cũng khác hẳn ra. Nhiều thầy cô dạy chúng tôi hai năm đầu cũng nhận ra những thay đổi ấy. Tôi nhớ thầy Luyện điểm danh chúng tôi giống như mới gặp lần đầu dẫu rằng thầy dạy Hoá chúng tôi năm trước đó. “Các anh chị lớp này có tên giống như là diễn viên điện ảnh. Đoàn Triệu Mai Thoa, Lương Kim Đình Chính, Mai Hữu Sơn, Nguyễn Triệu Thanh Tuyền, Trương Phước Minh Trang, Trần Phan Huyền Trân, Trần Vũ Mỹ Trang....” Mà quả thật các nàng lớp tôi (trong đó không có tôi) rất đẹp. Tiếng tăm vượt ra khỏi biên giới Tam kỳ, đồn đến tận các trường đại học Đà nẵng, Huế, Sài gòn. Thời bấy giờ không có thi hoa khôi, hoa hậu chứ không thì các nàng của lớp tôi thể nào cũng đoạt giải. Còn các chàng của lớp tôi thì thành tích học hành sừng sỏ lắm. Ngọc Thịnh, Quốc Việt, Phi Thạnh, Bá Linh.... đã từng ở trong các đội học sinh giỏi các môn, đã từng đi thi huyện, tỉnh năm lớp chín. Tôi như một khán giả không tên tuổi đi xem một chương trình biểu diễn “live” mỗi ngày trong lớp tôi.
Năm mười hai tôi chơi thân với Kiều Hạnh. Hình như con gái trong lớp chỉ có tôi với Kiều Hạnh thi khối A nên trong lớp học luyện thi buổi tối ở nhà thầy Quân chỉ có tôi và nó lọt vào giữa đám con trai hơn mười đứa. Nhà thầy Quân ở đường Nguyễn Thái Học. Chín giờ tối tan học, đường tối om. Tôi sợ ma khi đi qua cánh đồng chỗ cống bà Xèng một mình nên thường đi với Kiều Hạnh vòng ra đường Phan Chu Trinh, rồi mới lên đường Huỳnh Thúc Kháng về nhà. Tôi thường bám theo Phi Thạnh và Ngọc Thịnh chạy nhanh qua quãng đường có cây đa cổ thụ trên chợ Mai một chút, nơi nổi tiếng những câu chuyện ma. Thời bấy giờ vì sợ bị ghép đôi nên bạn bè khác phái trong lớp chẳng bao giờ dám đạp xe song song trên đường. Bây giờ mỗi lần kể chuyện lớp ngày xưa, tuị tôi cứ cười không hiểu nỗi cái sợ hãi vu vơ của tuổi học trò ngày ấy.
Năm mười hai chúng tôi may mắn được học với những thầy cô có tiếng trong trường. Những bài giảng Cơ, Quang, Điện cuả thầy Quân theo tôi vào những lớp Lý trên đại học. Tôi là đứa chậm tiêu. Khi còn học với thầy thì lúc nào cũng vừa đủ điểm trung bình. Nhưng lúc lên đại học, không hiểu sao lại nhớ cách giải của thầy. Một giáo sư dạy Lý khen tôi có cách trình bày bài toán Vật lý hay và lạ. Cảm ơn thầy rất nhiều về những bài giảng trong ba năm cấp ba. Nhớ những lớp Toán cuả thầy Cường với hình vẽ không gian đẹp tuyệt vời. Thời bấy giờ cái gì cũng hiếm nhưng chẳng biết thầy tìm đâu ra mấy viên phấn màu. Chúng tôi cứ tròn mắt ra nhìn những hình không gian ba chiều hiện ra sau mỗi nét vẽ của thầy. Có lần thầy vẽ đẹp quá, chúng tôi cứ trầm trồ mãi không muốn xoá. Khi đến tiết kế tiếp, chúng tôi lại năn nỉ các thầy cô đừng lau bảng để dành hình cho đến cuối buổi học.
Nhớ những giờ học Sử với thầy Tâm. Thầy có mấy bộ sưu tập những hình ảnh màu các sự kiện và nhân vật lịch sử. Mỗi lần thầy dùng những hình ảnh rất đẹp này để minh hoạ cho bài giảng, những bài học lịch sử trở nên sinh động và dễ nhớ hơn. Nhớ những giờ học Anh văn với cô Thu Phúc. Cô thường đến lớp với những chiếc áo dài thật đẹp, quí phái như họ Tôn nữ của cô. Nhớ có lần cô dạy chúng tôi bài hát “Red river valley”. Nghe cô hát qua một lần, tôi thích ngay giai điệu bài hát. Vậy mà lớp tôi với những giọng ca khói sương huyền thoại như Minh Trang, Mỹ Trang, Mai Thoa, Bích Vân, Lệ Hải, Minh Đức, Hữu Việt, Thanh Yên… lại hát không ra tiếng. Chắc có lẽ vì trong bài hát có câu: “Then come sit by my side if you love me…”mà các ca sĩ lớp tôi mắc cỡ chăng? Thời học trò ngày xưa ngây thơ dễ thương quá!
Nhớ mấy giờ học Văn học lãng mạn với cô Nguyệt Thanh. Hình như hồi đó chương trình chỉ có hai tiết giới thiệu về Văn học lãng mạn. Cô dạy những bài thơ tình của Xuân Diệu, rồi những tác phẩm của Tự lực văn đoàn. Cô giảng ba hay bốn tiết gì đó, chúng tôi nghe say sưa. Nhớ hôm cô kể chuyện tình Vọi và Hiền trong tác phẩm “Trống mái” của Khái Hưng, chúng tôi ngồi nghe chăm chú quên mất tiếng trống báo đổi giờ. Đến khi thấy thầy Cường xuất hiện nơi cửa lớp, chúng tôi năn nỉ thầy cho xin thêm mười lăm phút để cô kể xong câu chuyện. Thầy rộng rãi cho nguyên một tiết học để cô kết thúc phần văn học lãng mạn. Sau mấy tiết học đó, tôi về nhà ông anh họ, lục tìm mấy cuốn sách trước bảy lăm đọc không sót cuốn nào. Tôi thấy nhiều chi tiết trong cuốn “Phê bình văn học nghệ thuật” cuả Hoài Thanh có trong bài giảng của cô nhưng không có trong sách giáo khoa thời đó. Cảm ơn cô về những bài văn, bài thơ và bài phê bình bị cấm để chúng tôi được thưởng thức một phần những tác phẩm tuyệt vời của văn học Việt nam.
Nhớ lúc học thi tốt nghiệp ở nhà Kiều Hạnh. Má nó thương tôi như con. Có lần tôi ở lại nhà nó học bài. Chúng tôi học trên lầu. Buổi tối nhìn ra, Kiều Hạnh chỉ ra đó là nhà Thuỷ lớp 12/2. Nhích qua xiú nữa là nhà Khắc Lắm, rồi hai chị em Huyền Trân và Quốc Việt. Xa hơn tí nưã là nhà Hữu Việt. Nhà nào cũng đèn sáng choang, chứng tỏ tuị nó còn thức. Mà tuị nó còn thức thì hai đứa tôi cũng không dám đi ngủ. Kiều Hạnh bàn, “Để tau pha cà phê uống.” Lần đầu tiên tôi nhấm ngụm cà phê đắng ngắt. Chẳng có gì ngon hết nhưng uống để thức. Chúng tôi chẳng thức mà lăn ra ngủ đến lúc mặt trời mọc lên xuyên qua cửa mà không biết. Má nó phải đánh thức tụi tôi dậy.
Năm đó thi tốt nghiệp bốn môn: Toán, Văn, Lý, Anh. Nếu không học Anh văn thì thi Sử. Dân khối A và khối D thích nhất vì vừa học thi tốt nghiệp và đại học được hai môn. Tôi nhớ Ngọc Thịnh chạy ngang qua nhà tôi reo lớn, “Toán, Văn, Lý, Anh”. Nhà Thịnh có radio nên biết tin tức sau nghe khi loan báo trên đài. (Thời bấy giờ không phải nhà nào cũng có radio.) Trong bốn môn đó, tôi sợ nhất là môn Văn. Ba môn kia thì học được nhưng môn Văn thì chẳng biết học làm sao. Hồi đó bài làm văn phải viết ít nhất là một tờ giấy đôi có bốn trang rứt ra từ vở học trò. Tôi chẳng bao giờ viết kín được ba trang. Tôi thường ráng viết chữ thật to. Rồi chưà bốn năm dòng cho phần điểm và lời phê. Vậy mà tôi cũng không thể nào lấp kín được đôi giấy. Bởi vậy môn viết văn của tôi năm nào cũng đều đặn từ bốn điểm rưỡi cho tới năm điểm rưỡi. Cộng trung bình, đủ điểm để lên lớp. Thi tốt nghiệp xong, tôi biết mình sẽ được hơn năm điểm ba môn kia. Nhưng môn Văn thì hồi hộp chờ kết quả. Nghe nói chấm bài chung toàn tỉnh và thầy cô trường Phan Chu Trinh, Đà nẵng thì chấm rất khó. Tôi sợ không biết mình có đậu không. Nghe cô Nguyệt Thanh, cũng là cô chủ nhiệm, đi chấm thi về, tôi chạy ra nhà cô hỏi thăm. Cô nói, “Cô không biết kết quả nhưng cách viết của em chắc chắn được năm điểm.”
Quả đúng vậy. Tôi được năm điểm. Mừng hết lớn. Mừng nhất là từ đó tôi không phải viết những gì tôi không muốn và không thích viết. Cảm ơn cô Nguyệt Thanh, người đã cho tôi những bài giảng để tôi biết thưởng thức được cái hay, cái đẹp trong những bài văn. Cảm ơn cô về những phần thưởng nho nhỏ khích lệ chúng tôi trong học tập. Những phần thưởng ấy là những gói kẹo hay cuốn sổ nhỏ cô mua phát thưởng cho tụi tôi từ tiền lương của cô, theo tôi biết là không nhiều lắm. Thế mới biết lòng yêu nghề của cô lớn thể nào. Tôi nhớ mãi lời nói của cô trong lần thăm cô trước khi chia tay Tam kỳ. “Ở đâu cũng phải làm việc. Bên đó giếng có thể sâu, nhưng em có niềm hy vọng là có nước để múc.” Tôi chẳng biết cô có khuyên ai câu này không, nhưng tôi cảm thấy câu này cô chỉ dành riêng cho tôi. Cảm ơn cô rất nhiều về triết lý sống này. Cảm ơn các bạn 12/1khoá 82-85 đã cho tôi những kỷ niệm rất đặc biệt trong đời. Những kỷ niệm không thể nào quên được. Những kỷ niệm làm tôi bay bổng những khi nhớ về tuổi học trò ở trường Trần Cao Vân năm nao.
Viết xong 7/2015